Các Bài Suy Niệm Chúa Nhật 2 Mùa Chay năm C

Nếu trong một vài lúc, sự vâng phục thánh ý Chúa Cha xem ra là một thánh giá nặng nề, chúng ta hãy tin chắc rằng ngày kia sự vâng phục đó sẽ là nguồn vâng phục khôn tả. Và ngay trong cuộc đời này, chúng ta đã được sự bình an của Chúa Giêsu.

Các Bài Suy Niệm Chúa Nhật 2 Mùa Chay năm C

Lc 9,28b-36

 

1.  Chúa Giêsu biến hình đổi dạng

(John Nguyễn)

a. Chúng ta cũng giống như Đức Giêsu:

Có bản chất cao quí ẩn trong thân xác yếu đuối của kiếp người trần Cuộc biến hình của Đức Giêsu cho ta thấy bản chất sâu thẳm của Ngài, Ngài không chỉ là một con người yếu đuối, phải đau khổ, và chịu bao hạn chế của kiếp người như bao người khác, mà còn là một vị Thiên Chúa đầy vinh quang và quyền năng. Trước khi Ngài bước vào cuộc khổ nạn và chịu chết, Ngài đã cho ba môn đệ yêu dấu nhất của Ngài thấy được bản chất sâu thẳm của Ngài, để củng cố niềm tin của các ông. Nhất là trong những ngày sắp tới, đức tin của các ông sẽ bị chao đảo dữ dội, vì lúc ấy các ông chỉ có thể thấy được con người hết sức bất lực và hạn chế của Ngài. Nhưng thật ra, sự yếu đuối bất lực ấy chỉ là tạm thời, bản chất thường hằng của Ngài là bản chất đầy vinh quang, cao cả như các môn đệ đã chứng kiến trên núi Ta-bo. Bản chất ấy vẫn còn trong tình trạng ẩn dấu, chưa tỏ lộ.

Chúng ta cũng một phần nào tương tự như Đức Giêsu, chúng ta cũng có hai bộ mặt, với hai cách hiện hữu hết sức khác nhau. Một đằng chúng ta là con người như bao nhiêu người khác, nhưng đằng khác, chúng ta là con cái Thiên Chúa. Là con cái Ngài, ta được Ngài ban những ơn đặc biệt để trở nên xứng đáng với địa vị đó. Căn bản và cao quí nhất là Ngài thông ban cho chúng ta chính bản tính Thiên Chúa của Ngài. Thánh Phê-rô đã cho ta biết chân lý ấy: “Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quí báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa, sau khi thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian” (2Pr 1,4).

b. Bản chất cao quí của chúng ta: là con cái của Thiên Chúa

Thông thường, ta ít khi ý thức được phẩm giá hết sức cao quí của mình cũng như của những Ki-tô hữu sống gần ta, chung quanh ta, tất cả đều là con cái Thiên Chúa. Không ý thức được điều ấy, nên ta không trân trọng đủ chính bản thân ta cũng như không trân trọng những Ki-tô hữu khác. Chúng ta sống giống như mình không phải là con cái của Ngài, vì nếu ta xác tín được mình là con cái của Ngài, đời sống chúng ta sẽ thay đổi rất nhiều. Chúng ta thử nghĩ, nếu ta là con một vị vua, là một hoàng tử, thì ta sẽ xử sự thế nào? Trước mặt mọi người, ta sẽ phải cư xử cho đúng với tư cách một vị hoàng tử. Đi đâu ta cũng không sợ bị ai ăn hiếp hay bắt nạt, vì đằng sau ta có cả một hậu thuẫn mạnh mẽ.

Tuy cũng có cái vỏ bề ngoài yếu đuối và đầy hạn chế như bao nhiêu người khác, nhưng bản chất của chúng ta vượt hẳn cái vỏ bề ngoài yếu đuối ấy. Chúng ta là con cái Thiên Chúa, được thông phần bản tính của Thiên Chúa, đầy vinh quang, quyền năng, tình thương. Tình trạng của chúng ta giống như bức tượng bằng vàng trong câu chuyện minh họa sau đây.

Một ngôi chùa kia có một tượng Phật bằng vàng, nhưng trong thời chiến tranh loạn lạc, người ta phải che dấu sự quí giá ấy bằng một lớp đất sét bọc bên ngoài. Thành thử mọi người tới xem chỉ thấy đó là một bức tượng bằng đất sét, chẳng quí giá hơn những tượng đất sét khác. Chiến tranh kéo dài quá lâu, nên sau chiến tranh, người ta không còn nhớ bức tượng đó bằng vàng nữa, cho đến một hôm… Một hôm, sư trụ trì vô tình để một vật cứng chạm mạnh vào bức tượng, khiến bức tượng bị bể một mảnh lớn, và để lộ ra chất vàng lấp lánh sáng chói. Thế là ông bèn đập bỏ tất cả lớp đất sét bọc bên ngoài. Và tượng Phật bây giờ đã trở thành một bức tượng bằng vàng sáng chói, đầy giá trị.

Mỗi người Ki-tô hữu chúng ta đều có một cái gì giống như bức tượng đó. Bên ngoài dù chúng ta không khác gì ai, không hơn gì ai, nhưng thực ra, chúng ta là con cái Thiên Chúa, là hình ảnh của chính Thiên Chúa, mang bản tính Thiên Chúa nơi bản thân. Dù ta có yếu hèn, tội lỗi, hay xấu xa đến thế nào đi nữa, thì bản tính Thiên Chúa trong chúng ta vẫn là bản tính của Thiên Chúa, đầy quyền năng, mạnh mẽ, trong sạch, thánh thiện. Vào thế kỷ thứ nhất của Ki-tô giáo, một giám mục thuộc phái Ngộ Đạo (gnosticisme) nói rằng: “Chúng ta, những người Ki-tô hữu, cũng giống như một thỏi vàng nguyên chất, dù có bị ném xuống bùn nhơ, cũng vẫn là một thỏi vàng nguyên chất với đầy đủ giá trị của nó. Chỉ cần rửa sạch lớp bùn bám bên ngoài, thì thỏi vàng lại sáng lên ánh sáng đặc trưng của nó”. Hay tương tự như một hoàng tử trong thời gian bị lưu lạc xa vua cha, dù có làm nghề gì thấp hèn đến đâu để sinh sống, thì cũng vẫn là hoàng tử. Chỉ cần hoàng tử ấy trở về với vua cha, thì hoàng tử sẽ lại trở thành hoàng tử chính hiệu, với quyền kế vị vua cha.

c. Chúng ta thường quên không ý thức được bản chất cao quý ấy

Rất nhiều khi người Ki-tô hữu chúng ta đã quên mất bản chất hết sức cao quí của mình là con cái Thiên Chúa, là hình ảnh Thiên Chúa (nghĩa là giống như Thiên Chúa), là người mang trong mình bản tính của Thiên Chúa, và vì thế chúng ta có quyền thừa hưởng gia nghiệp cua Ngài với tư cách là con cái Ngài. Chính vì quên mất cái bản chất cao quí ấy, nên nhiều khi chúng ta đã sống không xứng đáng với bản chất ấy, nghĩa là cũng chỉ sống giống như bao người khác, thậm chí sống như con cái của ma quỉ, của thế gian, không phù hợp với phẩm giá của mình. Là con cái Thiên Chúa, nhưng nhiều khi chúng ta tin tưởng, cầu xin, khiếp sợ hoặc trông cậy vào những thế lực khác, vào sự can thiệp của những quyền lực không phải của Thiên Chúa, thậm chí đối nghịch với Thiên Chúa. Chúng ta đã hành xử như thể Thiên Chúa là một hữu thể xa lạ đối với mình, không phải là người Cha rất yêu thương mình, mà hành xử như một người có bản chất thấp hèn. Hành xử như thế, vô tình, chúng ta đã hạ thấp hoặc xúc phạm đến hình ảnh và bản tính Thiên Chúa trong chúng ta.

d. Hãy thường xuyên biểu lộ bản tính cao cả của chúng ta trong tư tưởng, qua lời nói và hành động

Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy thần tính hay bản chất vinh quang cao cả của Đức Giêsu, vốn ẩn dấu trong thân xác đầy hạn chế của Ngài, nay hiện ra một cách tỏ tường trước mặt các tông đồ. Điều đó cũng nhắc cho chúng ta ý thức về bản tính hay hình ảnh của Thiên Chúa nơi thân xác yếu đuối của chúng ta. Chúng ta cần thường xuyên biểu lộ bản tính hay hình ảnh của Thiên Chúa nơi chúng ta qua tư tưởng, lời nói, hành động của mình. Làm sao để mỗi tư tưởng, mỗi lời nói, cũng như mỗi hành động của chúng ta đều nói lên được bản chất cao quí của chúng ta là con cái Thiên Chúa, là hình ảnh trung thực của Thiên Chúa. Giống như người ta có thể nhìn vào cách ăn nói, xử sự của một người mà đoán được bản chất của người ấy. Hay như khoa học thời nay có thể căn cứ vào một sợi tóc, một tế bào của một người mà biết được tính chất hay tình trạng thể lý của người ấy. Cuộc sống của một người con cái Chúa cũng phải toát lên được bản chất ấy của mình.

Bài đọc 2 cũng nhắc lại cho ta biết quê hương đích thật của chúng ta là ở trên trời. Và trong tương lai thân xác yếu hèn của chúng ta cũng sẽ trở nên vinh hiển, mạnh mẽ như thân xác của Ngài. Tất cả những đau khổ, hạn chế của ta chỉ là tạm thời, sẽ qua đi, nhưng bản chất cao quí của ta thì mãi mãi tồn tại và không thay đổi.

 

2. Suy niệm của JKN

 

THẦN TÍNH NƠI ĐỨC GIÊSU VÀ NƠI MỖI NGƯỜI CHÚNG TA

Câu hỏi gợi ý:

1. Sự hiển dung của Đức Giêsu mặc khải điều gì? Dung mạo Ngài thay đổi, y phục chói loà, sự hiện diện của Môsê và Êlia có ý nghĩa gì?

2. Đức Giêsu có thần tính, vì Ngài là Con Một Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta có thần tính và có là con cái của Thiên Chúa không? Thần tính của Ngài và của ta khác nhau chỗ nào?

3. Ý thức về thần tính của mình quan trọng thế nào trong sự phát triển tâm linh? Bj không ý thức về nó, ta có sử dụng được nó không?

Suy tư gợi ý:

1. Thiên Chúa mặc khải thần tính của Đức Giêsu

Bài Tin Mừng nói về việc Thiên Chúa mặc khải cho các tông đồ biết Đức Giêsu có thần tính và là Đấng mà Môsê và các ngôn sứ loan báo mấy trăm năm trước. Trong đời sống thường ngày ở bên cạnh Đức Giêsu, các tông đồ chỉ thấy được nhân tính của Ngài. Vì Ngài sống không khác bất kỳ một người bình thường nào: cũng ăn, uống, cũng vất vả, mệt nhọc, cũng vui buồn, tức giận… y hệt mọi người. Nếu có gì khác thì chỉ là Ngài làm được những phép lạ phi thường. Điều này chỉ gợi ý cho các ông nghĩ rằng Ngài là một người phi thường tương tự các ngôn sứ xưa mà thôi, vì các ngôn sứ ngày xưa cũng lắm khi làm được những phép lạ.

Nhưng hôm nay Thiên Chúa tỏ cho các ông thấy Đức Giêsu không chỉ có nhân tính, mà còn có thần tính, nghĩa là Ngài là thần linh. Tuy nhiên, tất cả những gì các ông thấy hôm nay chỉ là những biểu tượng thần bí nói lên bản tính thần linh nơi con người Đức Giêsu mà các ông không thể thấy được bằng trí tuệ hay con mắt xác thịt của các ông.

– Trước hết các ông thấy: “Dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà”. Tin Mừng Matthêu nói: “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời” (Mt 17,2). Và có tiếng phán từ trong đám mây “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!”. Đó là những biểu tượng cho các ông thấy Đức Giêsu có thần tính: Ngài là Con Thiên Chúa, có bản tính Thiên Chúa.

– Các ông còn thấy “có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Êlia”. Đây là hai nhân vật quan trọng nhất trong Cựu ước, đại diện cho hai thực tại quan trọng nhất của Do Thái giáo. Môsê đại diện cho luật pháp, vì ông là người lập ra luật pháp, nền tảng thành văn của Do Thái giáo. Êlia, ngôn sứ vĩ đại nhất, đại diện cho các ngôn sứ là những tiếng nói của Thiên Chúa giữa con người. Hai ông là biểu tượng tiên báo sự ra đời của Đức Giêsu. Trong sách Đệ Nhị Luật, Môsê viết: “Từ giữa anh em, trong số các anh em của anh em, Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh em; anh em hãy nghe vị ấy” (Đnl 18,15). Còn Êlia được ngôn sứ Malakia tiên báo là sẽ trở lại trước khi Đức Giêsu đến: “Này Ta sai ngôn sứ Êlia đến với các ngươi, trước khi ngày của Đức Chúa đến, ngày trọng đại và kinh hoàng” (Ml 3,23). Đức Giêsu cũng xác nhận Êlia phải trở lại trước khi Ngài đến (x. Mt 17,10-12; Mc 9,12-13).

2. Thần tính của chúng ta, những người Kitô hữu

Đức Giêsu có thần tính, nghĩa là Ngài là thần linh, cũng là Thiên Chúa. Thế còn chúng ta, những con người được Thiên Chúa tạo dựng thì sao? Kinh Thánh mặc khải cho ta biết con người là “hình ảnh của Thiên Chúa” (St 1,26-27; 9,6), được tạo dựng “giống như Thiên Chúa” (St 1,26b). Hình ảnh của một người không phải là người ấy nhưng giống hệt như người ấy, khiến ai nhìn vào hình ảnh ấy có thể phần nào thấy được chính người ấy. Hai vật hay hai người đã gọi là giống nhau, nhất là khi nói người này là hình ảnh của người kia, ắt phải giống rất nhiều điểm, hay rất giống ở những điểm cốt yếu. Người và chó đều có thân xác vật chất (cũng có đầu, mình, tứ chi, mắt mũi, v.v…), nhưng không ai nói người và chó giống nhau. Vậy, con người “giống như Thiên Chúa” ở chỗ nào?

Thánh Phêrô hé mở cho chúng ta biết: “Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2Pr 1,4). Như vậy, điều khiến con người giống Thiên Chúa chính là bản tính thần linh mà Thiên Chúa thông ban cho chúng ta. Bản tính thần linh chúng ta có được là do Ngài thông ban cho khi tạo dựng nên ta, khác với bản tính thần linh ở nơi Ngài là do tự bản chất vốn có của Ngài.

Nếu không có bản tính thần linh này trong chúng ta, chúng ta không bao giờ có thể nên thánh như Thiên Chúa đúng như Đức Giêsu đã mời gọi ta được: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Cũng như con chó không có bản tính người nên không thể có những đặc tính như con người (suy nghĩ, nói năng, yêu thương, hướng thượng, tự do…).

Thiên Chúa tự bản chất là tình thương và là thánh, con người vì giống Thiên Chúa từ bản chất nên cũng có khả năng yêu thương và nên thánh. Vua Đavít đã được thần hứng để nhận ra và nói lên chân lý này: “Ta đã phán: Hết thảy các ngươi đây đều là bậc thần thánh, là con Đấng Tối Cao” (Tv 82,6; x. Ga 10,34-35). Nếu chúng ta không có bản tính thần linh, chúng ta không thể là con cái Thiên Chúa đúng nghĩa như Kinh Thánh vẫn nói: chúng ta “là con cái Thiên Chúa” (Lc 20,36; Rm 8,14.16; Gl 3,26; 4,6). Chính vì chúng ta có thần tính mà Đức Giêsu dám quả quyết: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: “rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được” (Mt 17,20). Điều quan trọng để thần tính ấy hoạt động là đức tin.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, biểu tượng nói lên bản tính thần linh của các tông đồ là: “có một đám mây bao phủ các ông”. Tiếng của Thiên Chúa phán ra từ đám mây, vì thế đám mây tượng trưng cho thần tính. Và trong bài đọc II, thánh Phaolô cho ta thấy nguồn gốc hay “quê hương của chúng ta là ở trên trời” (Pl 3,20; x. Dt 11,16). Đó cũng là một biểu trưng cho thần tính của chúng ta.

3. Ý thức bản tính thần linh của mình và sống với bản tính ấy là cốt tuỷ của đời sống tâm linh Kitô hữu

Cuộc hiển dung của Đức Giêsu cho thấy bản tính thần linh của Ngài. Chỉ những ai được Thiên Chúa mặc khải mới biết bản tính ẩn dấu này ở nơi Ngài. Thần tính của Đức Giêsu là thần tính thường hằng, không thay đổi. Còn thần tính của chúng ta là thần tính cần phải vun trồng mới phát triển. Có thể minh hoạ điều này bằng sự phát triển của một cái cây. Thần tính được Thiên Chúa thông phần và ươm sẵn trong chúng ta tương tự như một cái hạt có thể nảy mầm và phát triển thành cây tuỳ theo sự vun trồng, chăm sóc của mỗi người. Nếu không có sự quan tâm, chăm sóc, vun trồng, thì cái hạt tâm linh của ta vẫn mãi mãi là một cái hạt, hoặc nếu có nẩy mầm thì sẽ thành một cái cây èo ọt, không sinh hoa kết trái. Trái lại, nếu được vun trồng và chăm sóc cẩn thận, nó sẽ phát triển thành một cây lớn với cành lá xum xuê và sinh nhiều hoa trái. Dụ ngôn hạt cải của Đức Giêsu (x. Mt 13,31-32; Mc 4,30-32; Lc 13,18-19) có thể áp dụng cho thần tính hay Nước Trời, được ươm giống trong bản thân mỗi người chúng ta.

Điều quan trọng nhất để hạt giống thần linh hay mầm thần tính ấy phát triển là phải tin vào thần tính ấy, thường xuyên ý thức về nó, và sống phù hợp với thần tính ấy. Nếu không có thần tính, chúng ta không thể có sự sống siêu nhiên hay đời sống tâm linh. Nếu không ý thức về thần tính ấy, sự sống siêu nhiên hay đời sống tâm linh của ta không phát triển được.

Thật vậy, làm sao sự sống siêu nhiên hay đời sống tâm linh có thể phát triển khi ta không hề ý thức mình có nó hay không hề cảm nghiệm được nó nơi bản thân? Càng ý thức về nó, càng sống phù hợp với ý thức đó thì tâm linh càng phát triển cùng với sức mạnh và quyền năng của nó. Người có đời sống tâm linh phát triển – tức người ý thức mạnh mẽ và thường xuyên về thần tính của mình – sẽ luôn luôn cảm thấy bình an, hạnh phúc, đầy tự tin vào sức mạnh của Thần Khí Thiên Chúa nơi mình. Thánh Phaolô kể ra những hoa trái của đời sống tâm linh hay sự sống bằng Thần Khí ấy: “Hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5,22-23). Ý thức thường xuyên về thần tính của mình là một hình thức cầu nguyện và kết hiệp với Chúa một cách thâm sâu. Nó sẽ đem lại một sự thay đổi sâu xa trong đời sống tâm linh của ta.

 

3. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

 

Tin Mừng hôm nay tường thuật cuộc biến hình của Chúa Giêsu trên núi Tabore. Lâu nay, các Tông Đồ chỉ xem thấy Ngài dưới hình dạng một con người bình thường.

Hôm nay, các ông thấy Ngài biến đổi thành một vị Thiên Chúa. Mùa chay là mùa tập luyện nhân đức để được biến đổi. Có hai cách biến đổi: Biến đổi theo hướng tích cực và biến hình theo hướng tiêu cực. Từ một con người xấu trở thành con người tốt hoặc từ một người tốt trở thành con người tốt hơn gọi là biến đổi theo hướng tích cực. Ngược lại, từ một con người tốt trở thành con người bình thường hoặc từ một con người tốt trở thành con người xấu gọi là biến đổi theo hướng tiêu cực.

1. Biến đổi theo hướng tích cực

Lần giở lại Kinh Thánh chúng ta bắt gặp nhiều trường hợp đã biến đổi theo hướng tích cực này. Chẳng hạn, dân thành Ninivê, từ vua chúa đến thường dân, khi nghe lời rao giảng của tiên tri Giona, đã ăn năn sám hối, biến đổi cuộc sống của mình. Lêvi, Giakêu, Madalêna là những người có quá khứ tội lỗi nhưng khi gặp Đức Kitô, các ngài đã trở thành những con người tốt. Rồi, sự biến đổi của Phaolô, Phêrô…Lịch sử Giáo hội cho chúng ta thấy bao nhiêu người từ tội nhân đã trở thành thánh nhân.

Trong chuyến thăm Ciudad Juarez – Mễ Tây Cơ tuần này, Đức Phanxicô đến thăm ‘Centro de Readaptacion Social estatal no. 3’ nơi giam giữ khoảng 3000 phạm nhân đang chịu án. Một nữ tù nhân nói với Ngài: “Khi bị tuyên án, chúng con khóc. Chúng con cảm thấy cùng quẫn, chúng con tuyệt vọng. Và chúng con bắt đầu tự hỏi mình những câu mà chúng con không muốn biết câu trả lời: Khi nào sẽ được ra? Gia đình có còn thương mình không? Họ có quên mình không? Chúng con cảm thấy nguy hiểm, yếu đuối, và cô độc”. Đáp lại những lời day dứt đau đớn này, Đức Phanxicô nói: “Người đã phải chịu đau khổ lớn nhất, có thể nói là ‘đã trải qua địa ngục’ có thể trở thành một ngôn sứ trong xã hội” (x. phanxico.vn ngày 18/02/2016).

Với chúng ta, từ những con người mang thân phận tội lỗi Adong, nhờ Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được biến đổi trở thành con Thiên Chúa. Và không thiếu những lần chúng ta đã sa vào con đường tội lỗi, nhưng với lòng sám hối ăn năn, Bí Tích Hoà Giải đã biến đổi chúng ta trong sạch, trả lại tình trạng ban đầu. Xin Chúa luôn gìn giữ chúng ta, giúp chúng ta dầu trong hoàn cảnh nào cũng biết hy vọng tin tưởng vào Chúa để được biến đổi theo hướng tích cực này.

2. Biến đổi theo hướng tiêu cực

Đáng tiếc thay, có những người không biến đổi theo chiều hướng tích cực mà lại biến đổi theo chiều hướng tiêu cực. Nghĩa là từ một con người tốt đã trở thành con người bình thường, thậm chí từ một con người tốt trở thành một con người xấu. Một Giuđa Tông Đồ, đã biến thành kẻ phản bội, người bán Chúa. Có những kitô hữu lúc đầu tốt nhưng rồi trở thành những người đam mê cờ bạc, rượu chè, trai gái, gian dối, lừa đảo…Có những bậc cha mẹ sống vô trách nhiệm, không quan tâm giáo dục con cái; có những người con bất hiếu, không quan tâm đến cha mẹ khi các ngài yếu đau bệnh tật…Nếu ai đang sống trong tình trạng trên, hãy dùng Mùa Chay thánh này để biến đổi, trở thành những người tốt có ích cho bản thân, gia đình, Giáo hội và xã hội.

3. Để biến đổi theo chiều hướng tích cực, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:

Thứ nhất, phải trải qua Thập giá: Khi Chúa Giêsu loan báo cuộc khổ nạn, Thánh Phêrô đã can ngăn Chúa. Nhưng khi thấy Chúa Giêsu biến hình trên núi Taborê, Thánh Phêrô lại xin Chúa lưu lại ở đó. Phản ứng của Phêrô cũng là phản ứng của con người qua mọi thời đại: “Thích sướng ngại khổ”. Nhưng để tới vinh quang cần phải qua đau khổ. Chính Chúa Giêsu đã đi con đường đó, Ngài nói: “Con Người phải đau khổ nhiều, bị các vị Kỳ lão, các Thượng tế, và các Luật sĩ khai trừ và giết chết, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại” (Lc 9,22). Các Tông đồ, đặc biệt là các thánh Tử đạo cũng đã đi con đường đau khổ mà Chúa đã đi. Đến lượt chúng ta, muốn tới vinh quang cũng không thể bỏ qua con đường đau khổ. Chúa Giêsu đã nói: “Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sự sống”(Mt 16, 24). Nơi khác, Ngài nói:“Nước trời phải chiếm bằng sức mạnh”(x. Mt 11,12); “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”(x. 13,24).

Kinh nghiệm cuộc sống thường ngày cũng cho chúng ta thấy, cần phải qua đau khổ mới tới vinh quang. Học sinh muốn đỗ đạt trong các kỳ thi cần phải chịu khó trau dồi kinh sử. Nông phu muốn có mùa màng bội thu cần phải cày sâu cuốc bẫm. Người cha người mẹ muốn có tương lai tốt đẹp cho con cái cần phải nuôi nấng, săn sóc và dạy dỗ chúng nên người. Nếu chúng ta biết vận dụng đau khổ thì đau khổ là phương tiện để biến đổi chúng ta trở thành người tốt, trở nên hoàn thiện như Cha chúng ta là Đấng hoàn thiện.

Thứ hai, hãy bắt chước Thánh Phaolô: Thánh Phaolô đã kêu gọi chúng ta bắt chước Ngài: “Anh em hãy bắt chước tôi” (Pl 3,17). Ngài muốn chúng ta bắt chước Ngài về sự biến đổi: Từ một người bắt bớ Giáo hội, Ngài đã biến đổi thành một vị tông đồ loan báo Tin mừng cho dân ngoại. Bắt chước Ngài ở lòng tin vững mạnh, Ngài luôn xác tín rằng: “Tôi biết tôi tin vào ai”(x. 2Tm 1,12). Bắt chước Ngài ở niềm cậy trông vào Chúa là vị thẩm phán chí công: “Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện”(2Tm 4,8). Bắt chước Ngài ở lòng mến sắt son: “Không có gì tách biệt chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa”(x. Rm 8, 39). Thánh Phaolô đã sống nhưng không còn là Ngài sống nữa mà là Đức Kitô sống trong Ngài (x. Gl 2,20). Ngài đã đồng hoá mình với chính Đức Kitô.

Để biến đổi chính mình, chúng ta cần bắt chước Thánh Phaolô về Đức Tin, Đức Cậy, Đức Mến. Bởi vì, chính chúng ta cũng phải làm gương cho những người khác, nhất là những người thuộc trách nhiệm chúng ta coi sóc: Người mục tử nói với đoàn chiên “Hãy bắt chước tôi”; Người trên nói với người dưới “Hãy bắt chước tôi”; Thầy cô giáo lý viên nói với các học sinh của mình “Hãy bắt chước tôi”; Các bậc làm cha mẹ nói với con cái “Hãy bắt chước tôi”. Bắt chước những điều tốt đẹp để hoàn thiện mình mỗi ngày nên giống Chúa. Được như vậy, xã hội chúng ta sống sẽ bớt đi các tệ nạn, con người sống với nhau sẽ có tình nghĩa. Mọi người, mọi nhà sẽ được an vui.

Thứ ba, hãy cầu nguyện: Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy: “Đang khi Chúa Giêsu cầu nguyện, thì khuôn mặt Ngài được biến đổi”(x. Lc 9,29). Trong ba năm sống công khai, Chúa Giêsu không những dạy cho chúng ta cầu nguyện mà Ngài còn làm gương cho chúng ta. Ngài cầu nguyện trước các biến cố quan trọng: Trước khi chọn các tông đồ; trước khi làm phép lạ hoá bánh ra nhiều; trước khi bước vào cuộc khổ nạn. Ngài dạy chúng ta hãy kiên trì cầu nguyện. Bởi vì: “Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ cửa thì sẽ mở cho” (Mt 7,7).

Thật vậy, lời cầu nguyện có sức biến đổi lạ thường. Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã nói: “Ai nói được mãnh lực của lời cầu nguyện? Sốt sắng như các Tông đồ và Đức Mẹ trong nhà tiệc ly, phó thác như Chúa Giêsu ở vườn cây Dầu, quyết định như Maisen giang tay trên núi, được tha thứ như người trộm lành”(ĐHV số 135). Đức Thánh Cha Phanxicô đã xác quyết rằng: “Lời cầu nguyện chân thành khiến phép lạ xảy ra và giúp con tim chúng ta không bị chai cứng. Lời cầu nguyện sẽ biến đổi Giáo hội. Không phải chúng tôi, các Giáo hoàng, Hồng y, Giám mục, linh mục làm cho Giáo hội tiến về phía trước mà là chính các thánh.” (Bài chia sẻ ngày 12.01.2016 tại nhà nguyện Thánh Marta).

Mùa chay là mùa tập luyện để được biến đổi. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết biến đổi mình bằng cách: “từ bỏ mình vác thập giá mỗi ngày”, bắt chước gương biến đổi của Thánh Phaolô Tông đồ và siêng năng nguyện cầu.

Lạy Chúa Giêsu, qua Bí tích Rửa tội Chúa đã biến chúng con thành Con Thiên Chúa, thành hình ảnh của Ngài. Nhưng qua thời gian, hình ảnh đó đã bị thay đổi. Trong mùa chay thánh này, xin cho mỗi chúng con biết cố gắng tập luyện nhân đức, biết siêng năng cầu nguyện, “bắt chước” thánh Phaolô để biến đổi mình trở về tình trạng ban đầu, đó chính là hình ảnh của chính Chúa. Amen.

 

4. Ai được lên Núi Chúa?

(AM. Trần Bình An)

Vào ngày 12-4 -1961, Yuri Gagarin trở thành phi hành gia người Nga đầu tiên. Chiếc phi thuyền Vostok-1 bay được một vòng quanh qũy đạo trái đất trong 1 giờ 48 phút, với vận tốc 17,000 miles một giờ. Anh trở thành một anh hùng của dân tộc Nga vào lúc đó, vì đã làm cho cả nước Nga hãnh diện vì sự tiến bộ của họ. Sau đó, đã có một buổi tiếp tân rất lớn để vinh danh anh. Người bạn thân và đồng nghiệp của anh là phi hành gia Alexei Leonov thuật lại.

Lúc đó Tổng bí thư Nikita Khrushchev hỏi dồn Gagarin: “Vậy nói cho tôi biết, anh có thấy Thiên Chúa trên đó không?” Lưỡng lự một chút, Gagarin trả lời dứt khoát: “Vâng thưa ngài, tôi có thấy!” Khrushchev cau mày, ông dặn dò: “Đừng nói với bất kỳ ai.” Vài phút sau, người đứng đầu Giáo Hội Chính Thống Nga lại bên, hỏi Gagarin: “Vậy, con cho cha biết, con có nhìn thấy Thiên Chúa trên đó không?” Gagarin do dự trả lời: “Không, thưa cha con không thấy.” Ngài dặn: “Đừng nói với bất cứ ai.” (Giai thoại trong New Age Journal, Vol. 7 (1990), p. 176)

Thực tế Yuri Gagarin đã được rửa tội trong Giáo Hội Chính Thống, nhưng do áp lực của Soviet đối với Kitô giáo, anh buộc phải dè chừng lại chính mình. Sau khi bay vào vũ trụ, Gagarin đã tới nhà thờ Ba Ngôi Thiên Chúa của Đan viện Thánh Sergi lớn nhất nước Nga, để tạ ơn Thiên Chúa đã cho chuyến bay thành công tốt đẹp…

Xưa kia, ông Môsê lên núi Sinai, được Thiên Chúa ban 10 Điều Răn, rồi ngôn sứ Êlia lên núi Khôrép, được Thiên Chúa ban cho sứ vụ. Nay Chúa Giêsu lên núi Tabor cùng với ba vị Tông đồ, Phêrô, Gioan, Giacôbê, diện mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa. Người đàm đạo với hai vị tiền bối Môsê và Êlia về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem.

Nhưng muốn được vinh dự lên núi Chúa, đâu phải đơn giản, dễ dàng và thoải mái như bây giờ leo núi bằng cáp treo.

Thanh tẩy

Chuẩn bị lên núi Thiên Chúa, Ông Môsê nhắc nhở dân chúng phải tấy uế, giữ mình thanh sạch cả tâm hồn lẫn thể xác. “Ông Môsê từ trên núi xuống nói với dân và bảo họ giữ mình cho khỏi nhiễm uế; họ giặt quần áo. Ông Môsê bảo: “Trong ba ngày, anh em phải chuẩn bị sẵn sàng. Đừng gần gũi đàn bà.” (Xh 19, 14 -15)

Trước khi bước vào công cuộc rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu vốn chẳng hề vương vấn tội nhơ, vẫn lặng lẽ, khiêm hạ đến cùng ngôn sứ Gioan Tiền Hô, để được chịu phép Thanh Tẩy, cùng được tràn đầy ơn Đức Chúa Thánh Thần.

Nhưng than ôi, chiếc áo trắng ngày chịu Phép Rửa Tội của tôi, nay đã hoen ố, lốm đốm, đen đúa, vền vện đỏ đen, lấm lem dầu nhớt, lỗ chỗ vết thủng, rách rưới, tả tơi. Chẳng còn tươm tất, nguyên vẹn, sạch sẽ, trinh nguyên, như tâm hồn trẻ thơ nữa. May thay, sau khi ăn năn, sám hối, nhờ ơn Hòa Giải, tấm áo đã được tấy trắng, tuy không còn được như mới, nhưng cũng trở nên sạch sẽ, thơm tho, lành lặn, không còn là mớ giẻ rách bỏ đi, chỉ đáng vất vào lò lửa không bao giờ tắt.

Chay tịnh và cầu nguyện

Ông Môsê dẫn dắt dân Israel bốn mươi năm trong sa mạc, một cuộc lữ hành trường kỳ, gian lao, khổ cực, một cuộc chay tịnh hoàn hảo, chỉ có bánh manna và nước lã. Tuy nhiên lòng dạ dân Israel vẫn chưa tĩnh, còn ngồn ngang trăm bề, nhung nhớ củ hành của tỏi Ai Cập, lẫn bụt thần dân ngoại.

Khi đào thoát khỏi tay hoàng hậu Ideven, ngôn sứ Êlia chạy trốn trong sa mạc, kiệt sức, ông được thiên sứ dưỡng nuôi bánh và nước. Tâm hồn thanh tịnh, phó thác vào tay Chúa Quan Phòng, ngôn sứ Êlia đi một mạch, suốt bốn mươi đêm ngày tới Khôrép, là núi của Thiên Chúa, để được giao sứ vụ. (1V 19, 8)

Chúa Giêsu khởi đầu công cuộc cứu độ nhân thế, bằng bốn mươi ngày đêm chay tịnh và cầu nguyện trong hoang mạc, chịu tôi luyện hết cơn cám dỗ này đến cám dỗ khác. Một lòng một dạ trung kiên, đi theo Thánh Ý Chúa Cha, đã được công khai xác nhận: “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng lời Người!” (Lc 9, 35)

Bước vào Mùa Chay Thánh, tôi lại coi chay tịnh chỉ như nghi thức bắt buộc của tín hữu Công giáo, nên chỉ tuân giữ theo hỉnh thức: kiêng thịt và ăn chay. Mà lòng dạ chẳng hề chay tịnh, chẳng hề thay đổi được gì. Vẫn cứ ham hố sự đời: tình, tiền, chức tước, địa vị… Cứ làm như tôi qua mặt Chúa dễ dàng, như lừa dối ông giám thị nhà trường, hay đốc công, giám sát tại công ty, xí nghiệp. Tôi đang theo đạo, giữ đạo, sống đạo hình thức, chứ nào sống trung thực Tin Mừng! Làm sao tôi xứng đáng lên núi Chúa?

Từ bỏ mình & Vác thánh giá

Cuộc xuất hành của dân Israel ra khỏi Ai Cập trước tiên có ý nghĩa từ bỏ tất cả những gì dính líu đế thân phận nô lệ. Ông Môsê đã giải thoát dân Israel, và dẫn đưa về miền Đát Hứa. Còn Chúa Cứu Thế sau này giải phóng con người toàn diện, khỏi ách nô lệ cũa ma qủy.

Không những từ bỏ những cám dỗ của thế gian, xác thịt và ma quỷ, Chúa Giêsu còn đòi hỏi từ bỏ chính mình, bỏ cái tôi kiêu căng, tự phụ, lố bịch, để chấp nhận đau khổ, sỉ nhục và đọa đầy, vác thánh giá mà theo Người, nếu ai muốn lên Núi Chúa.

“Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay thiệt thân, thì nào có lợi ích gì?” (Lc 9, 23 -25)

Ông Môsê, ngôn sứ Ê lia, và cả Chúa Giêsu đã sẵn sàng từ bỏ mình, nhập thể, chấp nhận vác thập giá, chấp nhận đau khổ, thử thách, để được vinh dự đến với Thiên Chúa. Còn tôi lại chạy trốn khó khăn, khổ cực, đòn vọt, để yên thân, no cơm ấm cật. Tôi từ bỏ vợ con, anh em, bè bạn, để lấy vợ bé, để ngoại tình, để kết bè kết bạn với kẻ xấu, với ma quỷ, hầu được vinh hoa phú quý, sao dám mơ tưởng lên Núi Chúa?

“Abraham đã ra đi, vì hy vọng đến Đất Hứa. Maisen đã ra đi, vì hy vọng cứu dân Chúa khỏi nô lệ. Chúa Giêsu đã ra đi từ trời xuống đất, vì hy vọng cứu nhân loại.” (Đường Hy Vọng, số 4)

Lạy Chúa Giêsu, được diện kiến Thiên Chúa là cõi phúc tuyệt vời, xin cho con luôn sống trong nguồn ơn thánh của Chúa, để linh hồn con có thể cảm nghiệm được sự vui sướng ngọt ngào, khi có Chúa ở cùng.

Lạy Mẹ Maria, xin giúp con thanh tẩy, thắng vượt mọi cám dỗ, biết từ bỏ mình, để được diện kiến Thánh Nhan Chúa. Amen.

 

5. Hãy vui lên

(Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu biến hình trước mắt ba tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê. Cũng chính ba tông đồ này là những người sẽ chứng kiến Đức Giêsu biến hình ở vườn dầu: “Ngài kinh hoảng âu sầu”. Ở vườn dầu, Đức Giêsu sấp mình xuống đất cầu xin cùng Thiên Chúa Cha để nếu có thể cho Ngài khỏi phải uống chén đắng; còn ở đây, Đức Giêsu hiển dung vinh hiển và Thiên Chúa xác chuẩn Ngài là Con Thiên Chúa, Đấng tuyển chọn Ngài. Ba tông đồ đã được chứng kiến Ngài hiển dung, để có thể chứng kiến Ngài buồn sầu xao xuyến: “linh hồn thầy buồn sầu đến chết được”. Đức Giêsu hiển dung, dấu chỉ cho thấy thân xác con người sẽ được biến đổi trở nên vinh hiển sáng láng, cho dù hiện tại người ta thấy thân xác mong manh mỏng dòn.

Thân xác con người sẽ được biến đổi. Đức Giêsu chết trần trụi trên thập giá và toàn thân Ngài bị biến dạng bởi những vết thương do người ta hành hạ, nhưng khi Ngài phục sinh thì thân xác Ngài trở nên tuyệt vời. Thân xác con người trước phục sinh và sau phục sinh tuy là một nhưng rất khác nhau. Đức Giêsu khi còn tại thế vẫn là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, Đức Giêsu Phục Sinh và Đức Giêsu trước đó vẫn là một tuy dù người ta thấy Ngài rất khác qua biến cố Phục Sinh. Theo niềm tin Kitô hữu, thân xác con người ở dương gian và lúc sống lại vào ngày cánh chung tuy là một nhưng vẫn khác. Theo thánh Phaolô, sống lại là thân xác thần thiêng, khác với thân xác dương thế biến đổi theo thời gian và cái chết (1Co.15, 44)

Con người thật lạ kỳ. Thân xác con người giới hạn và có những nhu cầu rất tự nhiên. Có người sống đời tại thế này chỉ biết lo thỏa mãn những nhu cầu của thân xác, mà quên đi một chiều kích siêu việt của con người. Khi chỉ thỏa mãn những nhu cầu vật chất, con người trở nên ích kỷ nhỏ nhen, không đạt được hạnh phúc thật ở trần gian này. Nếu người giầu chỉ biết lo tìm tiền bạc mà không chú trọng đến những nhu cầu tinh thần của mình và của những người thân của mình, thì họ không thể hạnh phúc thật. Con người có liên đới với người thân, với gia đình cha mẹ anh chị em họ hàng, và đặc biệt với con cái. Nếu không lo cho con cái triển nở, nếu không biết giáo dục con cái, con người sẽ không thể hạnh phúc được cho dù họ có tiền bạc dư giả, cho dù họ có địa vị chức quyền.

Phaolô đã có một thời bắt bớ những người tin vào Đức Giêsu Kitô, nhưng bây giờ ông đã miệt mài rao giảng Đức Giêsu Phục Sinh. Chính niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh đã làm Phaolô bình an hạnh phúc hơn. Phaolô đã tìm ra con đường hạnh phúc thật. Bây giờ, niềm vui niềm tự hào của ông là Thiên Chúa và những người thuộc về Ngài. Tuy rằng con người có thể thay đổi lòng dạ nhưng vì tin vào Thiên Chúa nên Phaolô vẫn an lòng. Trừ phi Thiên Chúa thất bại, còn không Phaolô luôn chiến thắng, vì Phaolô chọn những gì Thiên Chúa chọn. Cho dù ngay cả những lúc Phaolô cảm thấy rơi lệ khi thấy những con cái ngài đã thay lòng đổi dạ, đã chọn thực tại trần gian trên hết: “Chúa của họ là cái bụng”, thì Phaolô vẫn hy vọng họ sẽ trở lại với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Đấng trung tín. Thiên Chúa vẫn kiên trì đến với con người, và sẽ làm con người trở lại với Ngài.

Qua những chọn lựa của mình trước những thực tại trần gian mà con người hình thành chính mình. Phaolô đã là một con người khác qua biến cố té ngựa trên đường đi Damas. Phaolô đã hình thành chính mình trong suốt đời ngài. Mỗi người trong chọn lựa sống của mình, làm mình trở thành người tuyệt vời hay chỉ giống con vật, trở nên con cái Thiên Chúa hay trở nên con cái ma quỷ. Qua hành vi yêu thương mà con người ra khác và trở thành tuyệt vời hơn. Con người không chỉ chờ đến ngày Phục Sinh mới được biến đổi, nhưng mỗi người cũng đã đang biến đổi ngang qua chọn lựa sống từng ngày.

Con người vui mừng, vì Thiên Chúa đã yêu thương và cứu độ con người qua Đức Giêsu. Thiên Chúa đã và đang làm tất cả qua Đức Giêsu Kitô. Ngày xưa Thiên Chúa ký kết giao ước với Abraham, ngày nay giao ước mới đã được ký kết với con người bằng máu Đức Giêsu Kitô. Máu Đức Giêsu là dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương con người. Làm sao không vui khi biết Thiên Chúa yêu thương mình như yêu chính Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô (Ga.17, 23)?!

Thiên Chúa đã ký kết giao ước với Abraham. Thiên Chúa ký kết giao ước với con người vì con người chứ không phải vì Thiên Chúa. Thiên Chúa không cần giao ước vì Ngài luôn chân thật và thành tín. Thiên Chúa luôn trung thành, không bao giờ Ngài phản bội. Chỉ có con người mới bất trung và hay thay đổi, vì vậy mới cần giao ước. Thiên Chúa đã thề hứa với con người, để con người được biết tình yêu của Ngài đối với con người, để con người có thể sống an bình hạnh phúc vì mình được Chúa Tể hoàn vũ thương yêu.

Thiên Chúa đã đặt nơi Abraham ước vọng có con cháu nối dòng, và chính Thiên Chúa cũng là Đấng hứa ban cho ông con cháu đông như sao trên trời như cát bãi biển. Thiên Chúa cũng là Đấng giao ước với ông, để ông thuộc về Thiên Chúa, để Thiên Chúa lo cho ông. Thiên Chúa vẫn luôn ở với con người, giúp con người đi tìm chính Ngài, làm con người thuộc về Ngài trong suốt quá trình sống. Thiên Chúa là tình yêu, Ngài đang làm con người sống trong tình yêu và thuộc về tình yêu. Chính khi con người sống trong tình yêu và làm tất cả vì tình yêu, thì con người được hạnh phúc, vì lúc đó con người nên giống Thiên Chúa.

 

6. Hãy biến hình để được trở nên giống Chúa

(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)

Mùa Chay là thời điểm thuận lợi để mỗi người chúng ta sống tinh thần chiến đấu với ma quỷ cũng như những khuynh hướng xấu của tội. Đồng thời cũng là mùa của những đổi mới. Đổi mới từ con người nhu nhược, yếu hèn, trở nên một con người can trường, khẳng khái, cương quyết trước cám dỗ; từ con người bất xứng sang thánh thiện; từ con người già nua, tội lỗi, trở nên con người thanh xuân trong ân sủng.

Lời mời gọi đổi mới được chính Đức Giêsu mạc khải qua biến cố Biến Hình mà chúng ta cử hành hôm nay.

1. Ý nghĩa cuộc biến hình của Đức Giêsu

Thánh sử Luca trình thuật việc Đức Giêsu biến hình trên núi Tabor. Sự kiện này diễn ra sau khi Ngài tiên báo về cuộc khổ nạn lần thứ nhất (x. Lc 9, 22) cũng như nói về điều kiện cần có của người môn đệ khi đi theo Ngài (Lc 9, 23-26), đồng thời nó cũng diễn ra trong bối cảnh Phêrô vừa tuyên xưng đức tin (x. Lc 9,18-21).

Qua việc biến hình, Đức Giêsu muốn củng cố niềm tin cho các Tông đồ trước khi chứng kiến cuộc khổ nạn của Ngài, để các ông can đảm, trung thành làm chứng và chấp nhận chịu đau khổ khi cơm thử thách ập đến.

Mặt khác, Đức Giêsu muốn mặc khải cho các ông biết rõ căn tính của Ngài là Thiên Chúa, Đấng từ trời xuống để đem con người về với Thiên Chúa trong vinh quang.

Khi mạc khải như thế, Đức Giêsu muốn lật tẩy những xu hướng và đam mê của các Tông đồ về Ngài theo kiểu trần tục, đó là việc thiết lập triều đại chốn trần thế…, để rồi chính bản thân các ông sẽ được bù đắp bằng những ân lộc trần gian chốn quan trường!

Qua đó, Ngài mời gọi các ông đi trên chính con đường mà Ngài đã đi, con đường đó là con đường tự hủy và khổ giá. Nếu sẵn sàng từ bỏ ý riêng, vác thập giá để đi theo Chúa, thì cuối con đường đó mới nở hoa vinh quang, vì: hạnh phúc, vinh quang không bao giờ dành cho những người trốn tránh đau khổ. Nếu có thì cũng chỉ là thứ vinh quang phù phiếm, hão huyền do con người tưởng tượng ra và gán ghép rồi đặt tên cho nó là hạnh phúc, chứ thực ra không có thật! Vinh quang có thật chính là vinh quang của những người can dự vào mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của chính Đức Giêsu; để đi từ đau khổ đến vinh quang.

Vì thế, muốn chiếm được vinh quang Nước Trời, người môn đệ phải chiến đấu không ngừng nghỉ, phải chấp nhận chết cho tội, ý riêng và ngay cả sự sống thể xác… Hành trình này quả là cam go, không dễ, sẽ có người chán nản mà bỏ cuộc, nên đây là lý do Đức Giêsu biến hình trước mặt các Tông đồ để củng cố niềm tin cho các ông.

2. Chúng ta cũng được mời gọi biến hình

Chúng ta không được diễm phúc chiêm ngưỡng cuộc biến hình của Đức Giêsu như Phêrô, Giacôbê và Gioan khi xưa! Nhưng chúng ta lại được mời gọi đi ngay vào cuộc biến hình của chính mình để được trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài.

Cuộc biến hình đầu tiên, đó chính là ngày chúng ta được lãnh nhận Bí tích Rửa tội, khi ấy, con người tự nhiên của chúng ta có thể ví như được đặt vào một khuôn đúc mới để xuất hiện một hình ảnh mới, hình ảnh Đức Kitô, Đấng đã phục sinh.

Nhờ cuộc biến hình này, mà mỗi người chúng ta được trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, thành con Thiên Chúa và là đền thờ Chúa Thánh Thần.

Tuy nhiên, trải qua thời gian với những thăng trầm, yếu đuối của bản thân, nên sự tinh tuyền ấy bị ô uế, tâm hồn trong trắng bị vấy đục, khiến chúng ta trở nên con người cũ do tội lỗi vây phủ.

Điều này cho thấy, nơi con người chúng ta, luôn mang hình ảnh, dáng dấp, thái độ của Tông đồ Phêrô, hay như các Tông đồ trong bài Tin Mừng hôm nay. Khi cơn sốt sắng đến, chúng ta sẵn sàng từ bỏ mọi sự để được ở với Chúa, nhưng khi bả vinh hoa phú quý chào mời, chúng ta cũng tranh dành quyền lực và ganh đua nhất nhì với nhau trong sự ích kỷ, đê tiện của bản năng. Kinh nghiệm này đã được Thánh Phaolô thốt lên: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,19).

Thế nên, Mùa chay chính là thời điểm thuận tiện để chúng ta làm mới lại con người của mình, để xứng đáng với hồng ân cao quý mà chúng ta đã lãnh nhận thủa ban đầu nơi Bí tích Thánh Tẩy. Điều này đã được thánh Phaolô khuyên dạy: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,22-24).

Như vậy có thể nói: nếu muốn được hạnh phúc, vinh quang, chúng ta sẽ phải biến đổi như thánh Phaolô mời gọi. Đây là điều kiện để được chung phần với Đức Giêsu trong vinh quang.

3. Không biến hình thì chẳng được chung phần với Chúa!

Khi cử hành lễ Chúa Biến Hình, chúng ta cần xác tín rằng: Thiên Đàng hay hạnh phúc không thể có được nếu chúng ta cứ sống một cuộc sống bê tha, ăn chơi, đàn điếm! Hạnh phúc Nước Trời chỉ có được sau những đêm ngày chiến đấu với bản năng, ý riêng, để chỉ sống cho Thiên Chúa và những giá trị Nước Trời, khi đã sẵn sàng khước từ sự níu kéo đầy hấp dẫn của thế gian.

Vì thế, có lẽ chúng ta phải lội ngược dòng để chấp nhận lột xác, có khi phải chấp nhận mất mát, cay đắng và đôi khi phải đánh đổi ngay cả mạng sống.

Các thánh là những người đã chấp nhận sống ngược đời vì chân lý và Tin Mừng để được đổi mới. Chẳng hạn như:

Môsê đã biến hình khi ông từ bỏ ý riêng để theo ý Chúa. Êlia cũng vậy. Đức Giêsu thì đến chỉ để làm theo ý Chúa Cha. Phêrô và các Tông đồ, trong đó phải kể đến Phaolô, tất cả đều đã biến đổi từ con người nhát đảm, ham danh, hám lợi trở thành một con người can đảm, trung thành sống chết với đức tin, để chỉ còn giữ lại một mối lợi tuyết đối, đó là được biết Đức Giêsu và được ở trong Ngài.

Rồi nơi lịch sử Giáo Hội, đã có biết bao gương sáng về những cuộc đổi đời ngoạn mục đến kỳ diệu! Thật vậy, có những vị từ một người nghiện rượu, xì ke, ma túy đến nghiện Giêsu; từ những kẻ khát tình, trác táng chốn ăn chơi, trở thành người say mê Giêsu đến độ vì Ngài mà bỏ hết mọi sự; lại có người từ gái làng chơi trở thành vị thánh; có người dùng cả một hệ tư tưởng để chống đối đạo, đi theo bè rối, khi được biến đổi, họ đã trở thành người bảo vệ các chân lý đức tin đến chết trong anh dũng, kiên trung; có người từ trai tứ chiếng, đầu đường xó chợ lại trở thành đấng lập dòng…

Đây chính là mẫu gương điển hình về những cuộc biến hình trong Giáo Hội thời xưa và thời nay cũng như mãi về sau.

Mong sao, nơi sự kiện Chúa biến hình và những mạc khải của Ngài cũng như qua gương sáng nơi các thánh, chúng ta cũng hãy làm một cuộc biến hình mới của mỗi người để được trở nên giống Chúa và được chung hưởng hạnh phúc với Ngài bên các thánh trong Nước Hằng Sống. Amen.

 

7. Chú giải của Noel Quesson

 

Đức Giêsu đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê.

Thật đáng tiếc, sách bài đọc Chúa nhật đã cất bớt câu của Luca. Ông đã nồi “khoảng tám ngày sau khi nói những lời ấy, Đức Giêsu đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê”. Lại càng đáng tiếc hơn, vì ba Tin Mừng nhất lãm đều đồng ý liên kết chặt chẽ biến cố biến hình của Đức Giêsu với cuộc đàm thoại này của Người “khoảng tám ngày trước đó” (Mt 17,1-9,2; Lc 8,28). Đó là một trong những trường hợp biến cố mà hai giai đoạn trong cuộc đời của Chúa Giêsu được nối liền theo thời gian.

Vâng các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê phải nhớ đến sự kiện này. Tám ngày trước, đâu có một cuộc đối thoại không thể quên được, gồm hai phần: Trước hết, Người đã hỏi các ông: “Anh em bảo Thầy là ai?” và Phêrô đã trả lời câu hỏi về “lý lịch” này, bằng cách tuyên xưng đức tin vào Chúa là “Đấng Mêsia của Thiên Chúa”… Rồi ngay sau đó, Đức Giêsu bắt đầu loan báo cho họ biết cái chết sắp tới của Người. “Thầy phải chịu đau khổ nhiều, bị loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sống lại”. Đó là cuộc đàm đạo của các ông còn ghi nhớ trong tâm trí.

Việc biến hình liên quan mật thiết với cuộc thương khó và biến cố Phục Sinh. Trong vài tuần nữa, Đức Giêsu lại đem ba người theo Ngài, ba người bạn này đến vườn Ghếtsêmani (Mt 26,37; Mc 14,33). Gương mặt của Đức Giêsu mà họ sắp thấy rạng ngời vinh quang, lúc đó họ lại thấy thấm đầy mồ hôi và máu đỏ (Lc 22,44) bị vả tát, rồi phỉ nhổ (Mt 25,67).

Trong cuộc đàm đạo tám ngày trước, Đức Giêsu cũng loan báo cho các ông biết rằng, chính các ông sẽ phải “vác thập giá, của mình để theo Người” (Lc 9,23) và Người nói thêm rằng, “một số người sẽ không phải nếm cái chết, trước khi thấy Nước Thiên Chúa” (Lc 9,27)… “Vương quốc” bí mật này là sự phát triển vinh quang của Thiên Chúa trong nhân loại, thế thì biến cố biến hình phải chăng là một hình ảnh của vương quốc đó? Lạy Chúa, làm sao con có thể đạt được mềm vui Phục sinh, mà không phải ngang qua con đường khổ giá? Mùa Chay này có là dịp để giúp con thông hiệp với những đau khổ của Chúa không? Tuần lễ thứ hai Mùa Chay bắt đầu để “nhờ thập giá tiến đến niềm vui”. Thương khó – Biến hình, cũng là một mầu nhiệm.

Cùng với Phêrô, Gioan và Giacôbê, Người lên núi để cầu nguyện.

Oi! Thật các ông đã có một dịp may đặc biệt! Cầu nguyện với Đức Giêsu! Được thấy Người cầu nguyện! Nhưng chỉ lát nữa, chúng ta sẽ thấy ngay, dù các ông có hiện diện trong lúc đó, các ông cũng không xứng đáng hưởng dịp may này. Trong khi Chúa Giêsu cầu nguyện thì các ông lại “ngủ”. Đức Giêsu thật là “con người của cầu nguyện”. Vào mỗi lúc quan trọng của cuộc đời, Người đều cầu nguyện (Lc 3,21 – 5,16 – 6,12 – 9,18 – 9,28 – 10,21 -11,1 – 22,32 – 22,41 – 42-23,84 – 23;46). Trong suốt Tin Mừng của ông, Luca luôn ghi nhận Đức Giêsu tìm sự cô tịch có thể gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Có một bí mật trong con người Đức Giêsu. Ngài sống trong sự thân mật đặc biệt với một Đấng nào đó mà Ngài gọi là “Cha”. Đức Giêsu là “con người muốn hướng về Chúa Cha”. Đó là chìa khoá khai mở lý lịch sâu xa của Ngài. “Cha” là lời xưng hô đầu tiên khi Ngài còn là một cậu bé 12 tuổi ở Đền Thánh (Lc 2,49) và cũng là lời thưa cuối cùng khi Ngài đã trưởng thành, lúc Ngài chết trên thập giá (Lc 23,46).

Vậy thì, trong Mùa Chay này, tôi sẽ hướng việc cầu nguyện của tôi như thế nào đây?

Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà.

Rõ ràng là Thánh Luca tránh dùng từ biến hình mà Mát-thêu (17,2) và Máccô (9,2) đã dùng để loan báo Tin Mừng cho người đương thời, chúng ta cũng phải biết thích nghi, có thể phải tránh một vài từ. Thính giả của Luca là những người gốc ngoại giáo, hấp thụ văn hoá Hy Lạp, có thể chỉ thấy trong từ “biến hình” một trong rất nhiều biến dạng của những thần linh có tính huyền thoại. Luca thích một thứ ngôn từ bề ngoài có vẻ khiêm tốn hơn nhằm trong lúc cầu nguyện, gương mặt của Đức Giêsu trở nên khác thường”. Thực tế, khi ngắm nhìn một số người nam nữ, trong lúc họ sốt sắng cầu nguyện ta cũng có thể thấy gương mặt của họ rạng ngời từ bên trong: cũng chính là con người đó, nhưng có một cái khác thường đang toát ra.

Trong văn hoá Kinh Thánh, biểu tượng “y phục” cũng giúp ta bổ sung cho sự quan sát đầu tiên này. Y phục “trắng tinh và chói loà” là “dấu chỉ” cho các hữu thể trên trời (Đn 7,9-10,5) Còn các Kitô hữu đầu tiên dùng để nói về Đức Giêsu. Phục Sinh (Kh 1,13, Lc. 17,23-24,4). Đó là tấm áo trắng các bé thơ của chúng ta thường mang khi chịu phép rửa… Ao trắng của những người lớn khi tuyên xưng lại đức tin… áo trắng của cô dâu trong ngày cưới, áo của linh mục trên bàn thờ… Đó là những dấu chỉ của Phục sinh, dấu chỉ của những môn đệ, chia phần vinh quang với Thầy (Kh 3,4-5 – 3,18-4,4 – 6,11-7,9-9,13)

Khi gợi lên cho ta thấy Đức Giêsu với “gương mặt biến đổi” nhờ cầu nguyện, Luca có ý khích lệ chúng ta. Trong cuộc sống đầy thử thách và thất bại, đầy đau khổ và tội lỗi chỉ có cầu nguyện, vào những lúc nào đó, mới có thể biến đổi chúng ta. Bởi vì chúng ta cũng được “biến đổi” phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương” (2 Cr 3,18). Khuôn mặt Mùa Chay, phải là khuôn mặt biến đổi!

Có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Ê-li-a. Hai vị hiện ra rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sấp hoàn thành tại Giêrusalem.

Chỉ mình Luca mới nói cho chúng ta biết về đề tài cuộc đàm đạo giữa Chúa và hai chứng nhân vĩ đại của Cựu ước: Họ nói về việc Chúa lên đường, cuộc “xuất hành” (exodou, theo từ Hy Lạp). Chúng ta không hiểu rõ Đức Giêsu đã sống bị ám ảnh và đeo đuổi trước viễn tượng về cái chết của mình như thế nào, cái chết mà Gioan gọi là sự “bước qua” cuộc vượt qua của Người (Ga 13, 1) và Luca gọi là “sự bốc đi” (Lc 9,51-24,51). Đức Giêsu là con người hy sinh chính thân mình. Người biết Người đến để làm gì, sẽ đi về đâu Ngời đi về cùng Chúa Cha, Người “bước vào trong vinh quang bằng cách ngang qua cái chết”, và kéo theo Người toàn thể nhân loại.

Mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giêsu tại Giêrusalem, là tóm tắt toàn bộ lịch sử con người, tóm tắt định mệnh của tôi: Dù tôi muốn hay không, dù tôi ý thức hay không, tôi cũng đang bước đi trên con đường về với Chúa, bằng cách vượt qua cái chết. Tôi đang “xuất hành”, rời bỏ miền đất nô lệ để đến miền đất hứa. Giáo Hội bắt đầu Mùa Chay, vào ngày lễ tro, để nhắc cho ta nhớ định mệnh của ta: “Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về tro bụi!”. Nhưng cuộc biến hình sẽ biến đổi tình trạng phũ phàng của ta thành một viễn tượng vinh quang: Nhờ trở thành tro bụi, chúng ta mới bước vào trong Chúa. Niềm tin nơi Đức Giêsu là một điều lạc quan phi thường. Đó là ánh sáng cho mọi người? Chúng ta đang tiến về với Thiên Chúa.

Ong Phêrô và đồng bạn thì ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu và hai nhân vật đứng bên Người. Đang lúc hai vị này rời xa Đức Giêsu, ông Phêrô thưa với Người rằng: “Thưa Thầy chúng con ở đây hay quá! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cái cho Thầy một cái cho ông Môsê, và một cái cho ông Êlia”. Ong không biết mình đang nói gì.

Trước cảnh tượng gây ngỡ ngàng mà các ông đang chứng kiến một lần nữa các tông đồ không hiểu gì. Các ông đang sống trong tình trạng tranh tối tranh sáng, vừa tỉnh vừa mê, nói linh tinh. Tiếp cận với thế giới thần linh, không thể nói lên bằng ngôn ngữ rõ ràng được. Khi mọi sự kết thúc, nghĩa là khi Môsê và Êlia đã ra đi, thì các ông mới nhập cuộc, mới ấp úng mở lời. Tại Ghếtsêmani, cả ba người này đều ngủ cả.

Môsê và Elia là những con người của núi Sinai (Xh 38,18-22; 1 V 19~9-14). Cả hai như bừng cháy lên vì được gặp cảnh tượng không thể diễn tả. Cả hai, đều đã khơi dậy công cuộc giải phóng dân tộc mình khỏi mọi thần tượng đang chiếm chỗ của Thiên Chúa duy nhất. Đức Giêsu đã đàm đạo thân mật với các vị ngôn sứ lớn trong cựu ước. Trong Mùa Chay tôi có dành thời giờ để mở Kinh Thánh không?

Ong Phêrô còn đang nói, thì có đám mây đến bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ.

Khác với Mát-thêu và Máccô, Luca đưa ba môn đệ vào trong “đám mây: là biểu tượng thường xuyên của thế giới thần linh. Vì các Ngài còn không hiểu gì về biến cố. Biến hình vua xảy ra, nên có thể nói, chính Chúa đã muốn mạc khải lần thứ hai cho các ông. Để bước vào trong Chúa, chúng ta cần phải trải qua nhiều giai đoạn liên tiếp. Và một lần nữa, chúng ta lại ghi nhận sự sợ hãi liên tiếp của những người được gặp gỡ Chúa: Vì đó là Đấng hoàn toàn khác”. Hơn nữa, họ đâu có gì về việc đó lần này họ cũng lại im lặng.. Tất cả những, định nghĩa tín tý, theo lý trí, về Thiên Chúa, chỉ là những lời lẽ phần lớn là sau những lời nói tầm phèo. Lạy Chúa, Chúa vượt trên mọi quan niệm, chúng con chỉ có thể gọi Chúa là Đấng mà chúng con “không thể nhận biết được”. Chúng ta nên im lặng, thinh lặng nội tâm: Chúng ta hãy bước vào bóng mờ của đám mây, trong màn sương mù tạo bóng tối, trong đó ta không thấy cách xa bốn thước, nơi đó, ta phải dò dẫm, tìm đường mà đi.

Và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta, Người đã được Ta chuyện chọn”. Hãy vâng nghe lời Người.

Ở đây Mát-thêu và Luca đã dùng từ “Con yêu dấu” (tiếng Hy Lạp là “Aga pèto). Chỉ có Luca dùng từ “Người con đã được tuyển chọn” (tiếng Hy Lạp là “eklegnlenos”). Những nhà duy lý đề cao lịch sử, thường đặt vấn đề: Thực sự tiếng nói đó đã hàm chứa điều gì? Các Tin Mừng không hề quan tâm đến việc trả lời sự tò mò đó. Từ “được tuyển chọn”, là do Luca tự ý viết ra. Luca tham chiếu nhiều đoạn sách ngôn sứ Isaia trong đó từ này nói về “dân Chúa” một cách tập thể, hay nói về nhân vật bí mật “Người tôi tớ của Thiên Chúa” (Is 42,1~3). Vào lúc Chúa bị đóng đinh, Luca cũng sẽ dùng lại từ này (Lc 23,35).

Chúng ta cũng vậy, chúng ta đã được tuyển chọn do phép rửa của mình và mọi người lựa chọn đều nhằm tách riêng con người ra, để phục vụ kẻ khác. Chúa đã tuyển chọn tôi vì Người đang mong đợi một điều nào đó nơi tôi, một cái gì rất độc đáo.

Tiếng phán vừa dứt, thì chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu. Con các môn đệ thì nín thinh, và trong những ngày ấy, các ông không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã xem thấy.

Như vậy thì tốt hơn! Các ông đã không hiểu gì ngay lúc đó. Sau này các ông sẽ hiểu, khi Đức Giêsu sẽ là “Người tôi tớ”, người “được tuyển chọn trong biến cố Vượt qua”, trong cuộc xuất hành của Ngài về với Chúa Cha.

 

8. Chú giải của Fiches Dominicales

 

ÁNH SÁNG TRONG BÓNG TỐI CỦA HÀNH TRÌNH VỀ GIÊRUSALEM

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

1. Trong bước đi tăm tối về Giêrusalem

Rõ ràng thánh sử Luca muốn nối kết đoạn này vào những biến cố và những đoạn văn trước đó:

Câu hỏi then chốt của Hêrôđê về căn tính thực sự của Đức Giêsu: “Người này là ai mà ta nghe nói đến nhiều?”. Ong thắc mắc và “ông tìm cách gặp Người” (9,9)

Lời tuyên xưng của Phêrô với Đức Giêsu như với “Đấng Mêsia của Thiên Chúa” (9,2) và lời tiên báo lần đầu về cuộc

khổ nạn như một đoạn đường bắt buộc phải đi không chỉ đối với Đức Giêsu: “Con Người phải chịu đau khổ rất nhiều, chịu chối bỏ; chịu chết nhưng đến ngày thứ ba người sẽ sống lại (9,22), nhưng còn đối với các môn đệ thân tín của Người: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá hằng ngày rồi theo Ta” (9,23).

Jean-luc Vesco chú giải: “Định mệnh của trò cũng như của Thầy sẽ trải qua 2 giai đoạn, một giai đoạn khổ đau, một giai đoạn vinh quang. Các môn đệ khó mà hiểu được giai đoạn một. Nhưng Đức Giêsu vẫn kiên quyết. Ai muốn theo người đều phải nối kết vận mệnh của mình vào cuộc Khổ nạn là Phục Sinh của Người. Hai khía cạnh của mầu nhiệm cứu độ vẫn là bất khả phân ly” (“Giêrusalem và ngôn sứ của nó”, Cerf, trg 38).

Khoảng “8 ngày sau khi nói những lời này” là thời gian Luca đã định vị trình thuật về cuộc Hiển Dung, trong đó hai khía cạnh của mầu nhiệm vượt qua sẽ nối kết với nhau. Đó là.”khoảnh khắc thoáng qua lúc tấm màn che phủ căn tính Đức Giêsu được vén lên, lúc vinh quang tàng ẩn trong Người, nhờ qua đau khổ và cái chết, sẽ bừng lên vào buổi sáng lễ Phục sinh, sẽ từ thân thể Người chiếu toả ra.

2. Một thị kiến chói loà trên núi.

Trừ hai ba chi tiết, Tin Mừng thứ ba lặp lại y nguyên những chi tiết giống như Máccô và mát thêu để gợi lại một kinh nghiệm không diễn tả được.

* Nơi biến cố diễn ra hoàn toàn có tính cách biểu tượng đó là một “ngọn núi”, theo truyền thống Kinh Thánh, là nơi gặp Thiên Chúa, nơi Thiên Chúa tỏ bày mạc khải của Người.

* Sự lựa chọn các môn đệ đi theo cũng mang tính chất biểu tượng: “Phêrô, Gioan và Giacôbê” những môn đệ được kêu gọi đầu tiên, những người tại nhà Zai-rô, đã là chứng nhân của sự toàn thắng trên cái chết (8,31-56).

* Khung cảnh của biến cố cũng mang tính chất biểu tượng: Đó là cảnh Đức Giêsu cầu nguyện. Chỉ mình Luca đề cập đến chi tiết này. Theo Tin Mừng thứ ba, lời cầu nguyện luôn đi theo những giây phút trọng đại trong sứ vụ Đức Giêsu.

Lúc Người “cầu nguyện” trong ngày chịu phép rửa, trời mở ra, Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Người và có tiếng từ trời phán ra (3.21-22). Sau khi lánh vào “núi rừng để cầu nguyện”, Người đã chọn 12 môn đệ (6, 12- 16). Khi Người “cầu nguyện một mình” Người đã đưa ra câu hỏi dẫn tới lời tuyên xưng đức tin của Phêrô (9, 18-20). Và chẳng bao lâu nữa, ta sẽ thấy Người cầu nguyện trong vườn Giếtsêmani để tìm sức mạnh đảm đương cuộc chiến cuối cùng; biến hơi thở cuối cùng thành lời cầu nguyện (23.34 và 46); Phục sinh rồi giã từ môn đệ khi đọc lời nguyện chúc phúc cho họ (24,50-51).

– Tại nơi đây, trên núi cao, chính “đang khi cầu nguyện” mà

Đức Giêsu chiếu lên luồng ánh sáng thần linh. Khác với Máccô và Mátthêu, Luca không nói về sự biến hình biến dạng; Thánh sử chỉ nói “dung mạo Người trở nên khác thường” và “Y phục Người trắng rực rỡ”. Sau đó Người viết rằng: “Phêrô và các bạn tỉnh giấc và được thấy vinh quang Đức Giêsu”.

Hugues Cousin xác định: “Mặc lấy vinh quang” có nghĩa là tham dự vào ánh sáng huy hoàng của Thiên Chúa hằng sống, được nâng lên địa vị siêu tôn; y phục trắng ánh chớp, có nghĩa Đức Giêsu đã tiến vào khung cảnh thiên đường. Như thế, Đức Giêsu như được tạm thời mặc trước nguồn vinh quang Phục sinh mà Người sẽ được thừa hưởng khi sống lại. Tuy nhiên Luca nghĩ rằng có lẽ nguồn vinh quang này đã tiềm ẩn trong Đức Giêsu từ trước Phục sinh và do kết quả của việc cầu nguyện, Đức Giêsu không thể ngăn chặn luồng vinh quang ấy chiếu toả từ thân thể Người “Tin Mừng theo thánh Luca” Centurion, trg 137).

-Một chi tiết khác rất giàu biểu tượng đó là: Sự hiện diện của hai khuôn mặt lớn trong Cựu ước: Môsê và Êlia, là hai nhân vật tóm tắt tất cả Lề Luật Môsê) và các tiên tri (Êlia), hai nhân vật chính của Cựu ước đã loan báo rằng: “Đức Kitô phải chịu đau khổ rồi mới bước vào vinh quang” (Lc 24,26-27).

Sự hiện diện của các ngài là chứng cớ sống động rằng lời tiên báo của Đức Giêsu về tương lai của Người hoàn toàn phù hợp với Kinh Thánh.

-Một chi tiết riêng của Tin Mừng thứ ba đó là “cuộc lên đường của Người” (theo sát nghĩa là: cuộc “Xuất Hành” của Người: vừa chết, vừa Phục sinh, vừa được tôn vinh) mà hai nhân vật Cựu ước bàn tới. Môsê không phải là con người của cuộc Xuất hành. của núi Si-nai, của cuộc vượt qua Biển Đỏ sao? Và Êlia chẳng phải là vị tiên tri lớn đã phải chịu đau khổ vì Thiên Chúa và vì dân tộc trước khi được cất lên trong vinh quang thần thánh sao?

Như một Êlia mới, Đức Giêsu cũng được mời gọi chịu đau khổ trước khi được “cất lên” (9,51) trong vinh quang thiên quốc Người cũng là Môsê mới trong cuộc Xuất hành mới, trong lễ Vượt Qua mới của một Giao ước mới, sẽ vượt qua biển sự chết để giải phóng dân Người và dẫn đưa họ đến Đất

Hứa thật sự là Vương quốc của Cha Người.

– Phêrô có lẽ nhớ đến lễ Lều như một biểu tượng báo trước sự chấm dứt của lịch sử, đã đề nghị nắm chặt khoảnh khắc hiện tại bằng cách dựng “ba lều”. Nhưng Luca đã ghi nhận rằng mong ước cuộc thần hiển này kéo dài “ông không biết phải nói gì” vì ông vẫn chưa nhìn thấy viễn thống khổ nạn như một đoạn đường buộc phải đi qua.

– Lúc ấy Phêrô, Gioan và Giacôbê bị bao phủ trong “một đám mây” – Trong Kinh Thánh đó là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa – giống như Đức Maria trong ngày truyền tin, đám mây ấy “phủ bóng che rợp” các ngài. Các ngài “sợ hãi “.

– Chính lúc ấy “một tiếng nói ” vang lên trong đám mây. Cũng là tiếng nói khi Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan.

Nhưng hôm nay, tiếng ấy không còn nói với Đức Giêsu nữa (“ Con là Con Ta, hôm nay Cha đã sinh ra Con”) nhưng nói với các môn đệ của Người: “Đây là Con Ta mà Ta đã tuyển chọn”. Người Tôi Tớ đau khổ (xem Is. 42,1-8). Đức Giêsu, Người đang đồng hành với họ, thường che giấu vinh quang của mình, nay đã thoáng tỏ ra cho họ là Người Con, nơi Người, Cựu ước được hoàn thành; Người là Đấng nói năng với một uy quyền lớn hơn Môsê và Êlia nên ta phải “lắng nghe” Người là Đấng ta phải đi theo trên con đường dẫn về Giêrusalem: về vinh quang, qua thập giá.

3. Quy hướng về cuộc Xuất hành của Đức Giêsu.

Giờ đây mọi sự trở lại bình thường; “họ chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu “. Tạm thời, các môn đệ “im lặng” cho tới buổi sáng sau đêm khổ nạn, mọi sự chợt có ý nghĩa dưới ánh sáng ban mai ngày Phục sinh, ngày mà Chúa Thánh Thần của Lễ Hiện Xuống sẽ tháo cởi miệng lưỡi để họ làm chứng về những gì đã thấy đã nghe. Nhưng họ hiểu rằng từ nay họ sẽ cùng Người dấn thân vào một định mệnh vượt quá sức họ. Cần phải lên đường, đường đi về Giêrusalem chỉ mới bắt đầu. Định mệnh đó phải diễn ra trong niềm thao thức lắng nghe lời vị tiên tri, Con Thiên Chúa là Người Tôi tớ vừa mạc khải cho biết chuyến xuất hành lên Giêrusalem là thiết yếu. Giờ đây, Đức Giêsu chỉ còn một mình, nhưng ta phải bước theo Người.

Con Người tiến về sự chết, nhưng cũng là tiến về vinh quang cuộc biến hình vừa biểu lộ và các tông đồ đều được mời gọi bước theo số phận của Người.

 

9. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

 

BIẾN HÌNH TRÊN NÚI

1. Chúa Giêsu đang ở trong một khúc quanh quan trọng của sứ mạng Ngài. Việc rao giảng ở Galilê đã kết thúc. Trong nội bộ nhóm môn đệ. Phêrô vừa suy tôn Ngài là Đức Kitô của Thiên Chúa (9,20) và Chúa Giêsu, khi đón nhận lời tuyên tín ấy, đã hoàn toàn thêm bằng việc loan báo cuộc tử nạn của Ngài (9,22): Ngài không phải là kẻ chinh phục hiển hách mà từ bao đời vẫn mong chờ, cũng không phải là Đấng giải phóng chính trị mà người đương thời mơ tưởng, nhưng là Đấng Messia chịu đau khổ. Thánh giá nằm cuối chặng đường sứ mạng Ngài và là luật sống của Ngài cũng như của các môn đệ (9,23-26): thật là một viễn tượng khắc khổ cay đắng, nhưng đưa đến vinh quang nước trời (9,27). Cuộc biến hình làm cho các môn đệ thấy trước chính vinh quang đó, hầu soi sáng ý nghĩa của cuộc thử thách sắp đến. Chúa Giêsu dành riêng mạc khải này cho ba môn đệ đã đến rất gần mầu nhiệm của Ngài: Phêrô, Giacobê và Gioan. Cả ba cũng vừa được chứng kiến sự sống lại của con gái ông Giairô (8,51-56).

2. Bài trình thuật của Lc về cuộc biến hình có các đặc điểm chung của phúc âm thứ ba. Tiếng metamorphpthê (“đã biến hình”, coi Mc 9,2; và Mt 17,2) xem ra Lc đã cố ý tránh không dùng; nó được thế bằng câu: “dung nhan mặt Ngài ra khác”. Quả vậy, phải tránh cho các độc giả Kitô giáo gốc lương dân hình dung ra một tương tự nào đó giữa biến cố này với những chuyện hoá thân của thần thoại ngoại giáo.

Chỉ có Lc ghi rõ Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện và cuộc biến hình xảy ra đang khi Ngài cầu nguyện, như thế là kết quả của lời cầu.

Trong Púc âm thứ ba. Môisen và Êlia cũng được mặc lấy vinh quang thiên quốc, hai ông được trình bày như sau: “Có hai người là Môisen và Êlia… hiện đến trong vinh quang”. Có nên từ đó suy luận rằng nhị vị ấy tiên báo”hai người mặc áo chói loà” trong trình thuật phục sinh (24,4) hoặc tiên báo “hai người y phục trắng ngời” (Cv 1,10) đến cắt nghĩa cuộc thăng thiên siêu phàm cho các tông đồ chăng? Điều đó xem ra hoàn toàn thích hợp với dòng tư tưởng của tác giả phúc âm thứ ba. Êlia đã được cất về trời (2V 2,11; 1Mac 2,58; Hđ 48,9); còn trong kinh thánh (Đnl 34,5), cái chết của Môisen bao trùm màn bí ẩn, nên chắc hẳn đã tạo cơ hội phát sinh cuốn nguỵ thư được người ta biết đến dưới cái tên “sự thăng thiên của Môisen”; sau cùng, việc Chúa Giêsu kết thúc đời trần gian được gọi là cuộc “siêu thăng”, như tiếng dùng cho Êlia (9,51; x.Cv 1,2.11.22; Mc 16,19)

Tất cả những dự kiện góp chung lại đó làm cho chúng ta tin rằng sở dĩ Môisen và Elia có mặt trong bài trình thuật của Lc về cuộc biến hình là vì họ mang tư cách những nhân vật thiên quốc đến báo trước vinh quang tương lai của Chúa Giêsu. Các dữ kiện ấy cũng khiến ta tin rằng trong phúc âm thứ ba quang cảnh này trước hết là tiên trưng của biến cố thăng thiên. Đám mây, mà tác giả phúc âm muốn người ta chú ý vì đã làm cho các môn đệ sững sờ, có thể đem so sánh với đám mây thăng thiên (Cv 1,9) mà một ngày nào đó sẽ mãi mãi che khuất Chúa Giêsu khỏi mắt người đời.

3. Điểm đáng chú ý của bài trình thuật là việc Môisen và Elia đàm đạo với Chúa Giêsu về cuộc “xuất hành” của Ngài, nghĩa là cái chết của Ngài “sắp hoàn tất tại Giêtusalem (c.31). Cũng như ở chỗ khác, Lc là tác giả phúc âm duy nhất dùng tiếng doxa (vinh quang:c.32); mối liên hệ ông ta tạo ra giữa sự tử nạn và vinh quang rất gần với quang cảnh của Ga 12,27-28 mà người ta thường coi là tương ứng với câu chuyện Biến hình của phúc âm nhất lãm.

Người ta không nhất trí mấy về ý nghĩa chữ “xuất hành” (exodus). Nhiều người hiểu là “kết thúc” hay là “chết”. Theo nguyên tự, chữ đó có nghĩa là “ra đi”, mà người Pháp dịch là exode. Lc có lẽ xem toàn thể cuộc tử nạn, sống lại và lên trời như là một cuộc xuất hành mới: nhờ các cuộc tử nạn, sống lại và lên trời như là một cuộc xuất hành mới: nhờ các khổ đau của Ngài, Chúa Giêsu rời bỏ Giêruselem cứng tin, tương ứng với Ai cập, để đi vào vinh quang, tương ứng với Đất hứa của cuộc xuất hành xưa.

Với lối chú giải này, người ta đi đến kết luận rằng: cuộc xuất hành mà trong Mc và Mt trùng vào những ngày Chúa Giêsu bắt đầu đời sống công khai, thì lại được Lc cũng như Gioan đặt vào chặng cuối của cuộc sống Ngài ở trần gian. Cuộc viễn du 40 năm của dân Do thái tiến về đất hứa tương ứng với 40 ngày (Cv 1,3) từ khi sống lại đến lên trời. Tuy nhiên phải nhận rằng cách giải thích này còn gây nhiều vấn đề nan giải. Điều chắc chắn là tiếng xuất hành (exodos) không phải là tiếng thường dùng để chỉ sự chết (x. F,. Josephe, Ant. Jud. 4,8,2). Nhưng trái với hoài niệm xuất hành, người ta thấy rõ là sách tông đồ công vụ gọi cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc “tiến vào” (trong sứ mạng công khai) và “đi ra” (1,21; 13,24).

4. Như các biến cố khác của cuộc đời Chúa Giêsu, kể cả phép rửa và cám dỗ, cuộc biến hình trong phúc âm thứ ba được qui hướng về tấn kịch cuối cùng và hướng về Giêrusalem. Ngoài những yếu tố khác nhau được ghi lại trên đây, Lc còn là người duy nhất ghi lại điều này: trong cuộc biến hình cũng như ở vườn Giêtsimani, các môn đệ mê ngủ mà họ chỉ chứng kiến sự kỳ diệu khi thức dậy. Trong cùng một ý nghĩa đó, việc Phêrô xin dựng ba lều để kéo dài thời gian đặc ân làm cho ta liên tưởng đến việc hai khách bộ hành đi Emmau cầu xin Đấng – sống – lại ở với họ lâu hơn nữa.

5. Ngày Chúa Giêsu chịu phép rửa, đã có tiếng từ trời phán ra để trao cho Ngài một sứ điệp tương tự: “Con là Con ta, hôm nay ta sinh ra con” (Lc 3,22). Đó là lời Chúa Cha nói với Con Ngài, là lời tấn phong Đấng Messia theo kiểu CƯ (Tv 2,7) là lời khai mạc sứ mệnh của Đấng cứu thế (theo Mt 3,17: lời Tc nói với đám đông để giới thiệu cho họ Đấng Messia)

Còn trong cuộc biến hình, Chúa Cha ngỏ lời cho chính các môn đệ. Ngài mạc khải cho họ mầu nhiệm Chúa Giêsu: Ngài là Con Đấng đã được chọn. Danh hiệu “Đấng đã được chọn” này, tái xuất hiện khi Chúa chịu treo trên thập giá (23,35), đã gợi lại hình ảnh người tôi tớ (trong Is 42,1), vị tiên tri mang ánh sáng đến cho muôn dân và dùng cái chết để chuộc tội muôn người.

KẾT LUẬN

Cuộc biến hình là một gạch nối giữa ánh sáng mau vụt qua của phép rửa và ánh sáng rạng ngời của ngày phục sinh. Trong việc lên Giêrusalem, Chúa Giêsu thấy mình được lời Chúa Cha xác nhận trong sứ mạng Messia chịu đau khổ: Chúa Giêsu là Lời mà hết thảy mọi người phải nghe, là vị hướng đạo chắc chắn cho cuộc xuất hành cuối cùng tiến về cuộc sống sung mãn.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Luật muôn đời của đức tin là: vinh quang Thiên Chúa bao giờ cũng chỉ được ban cho chúng ta trong một chớp sáng mau qua vào những lúc được an ủi thiêng liêng sâu xa nhất: vừa sáng đủ để củng cố cho đức tin, vừa ngắn ngủi để khỏi xâm phạm tự do của nó. Suốt thời gian thử thách Thiên Chúa vẫn là Vị Thiên Chúa mai ẩn đối với người tín hữu, bởi vì Ngài là Cha và vì Ngài muốn được các tâm hồn tự do yêu mến.

2. Cuộc biến hình của Chúa Giêsu là sự đáp trả của Chúa Cha đối với việc Ngài chấp nhận cuộc tử nạn với tình yêu. Quả thật, ít hôm trước, Chúa Giêsu đã loan báo cho các tông đồ cuộc tử nạn sắp đến của Ngài. Ngài hoàn toàn ý thức Ngài đang tiến về cái chết. Ngài đón nhận cái chết như do ý muốn Chúa Cha để cứu chuộc nhân loại. Và để đáp trả lời vâng phục đầy tình yêu của con, Chúa Cha mặc cho Chúa Giêsu ánh sáng và vinh quang. Một thời gian nữa, Thiên Chúa cũng làm cho như thế tại Giêrusalem. Chúa Giêsu sẽ uống chén đau khổ và chén sự chết vì tình yêu vâng phục thánh ý Chúa Cha. Và để đáp lại tình yêu đó, Chúa Cha sẽ phục sinh con Ngài trong ánh sáng và vinh quang.

Trong đời sống Kitô hữu chúng ta cũng vậy. Nếu trong một vài lúc, sự vâng phục thánh ý Chúa Cha xem ra là một thánh giá nặng nề, chúng ta hãy tin chắc rằng ngày kia sự vâng phục đó sẽ là nguồn vâng phục khôn tả. Và ngay trong cuộc đời này, chúng ta đã được sự bình an của Chúa Giêsu. Với Ngài chúng ta có thể nói: “Tôi không ở một mình, vì có Cha ở với tôi, vì tôi hằng làm đẹp lòng Ngài” (Ga 8,29).

3. Chính đang khi cầu nguyện mà Chúa Giêsu được biến đổi. Thông thường các thánh, hình như cũng được biến đổi nhờ cầu nguyện và ngợi khen. Điều đó không lạ gì cả. Cầu nguyện là một sự gặp gỡ với Chúa Cha, làm chúng ta nên giống Ngài, ít ra là về tinh thần nếu không phải là về thể xác như trường hợp Chúa Giêsu và các thánh. Nếu chúng ta trung thành cầu nguyện, chắc chắn dần dần Chúa sẽ thông ban cho chúng ta ngay trong cuộc sống này một chút gì đó của sự bình an, của niềm hy vọng rạng rỡ của hạnh phúc Ngài.

4. Sau cuộc biến hình, các môn đệ gặp lại Chúa Giêsu với dáng vẻ tầm thường và cuộc sống thường nhật của Ngài lại tiếp tục. Và chỉ sau khi phục sinh, họ lại thấy Chúa Giêsu trong vinh quang của Ngài. Chúng ta cũng vậy, sau khi được an ủi nhiều, sau những cử hành phụng vụ đẹp mắt làm chúng ta sốt sắng, chúng ta lại trở về cuộc sống thường nhật. Tuy nhiên Chúa Giêsu vẫn tiếp tục ở với chúng ta trong mọi biến cố, mọi hành động thường ngày của đời sống. Trên đường đời, cho dù gặp nhiều thánh giá, nếu chúng ta bền tâm đi theo Ngài, một ngày kia chúng ta sẽ gặp Ngài trong mối thân tình êm ái còn hơn cả tình thân thỉnh thoảng chúng ta nếm được trên trái đất này. Vì khi đó, chúng ta sẽ thấy Ngài rõ ràng, mặt đối mặt. Khi đó, chính chúng ta cũng được biến đổi cho đến muôn đời.